Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Cả,[1] Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay chỉ đơn giản còn gọi là Tết) là dịp lễ quan trọng nhất của Việt Nam, cùng với văn hóa Tết Âm lịch của các nước Đông Á. Trước ngày Tết, thường có những ngày khác để sửa soạn như "Tết Táo Quân" (23 tháng chạp âm lịch) và "Tất Niên" (29 hoặc 30 tháng chạp âm lịch)
Vì Tết tính theo Âm lịch nên Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch (còn gọi nôm na là Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch. Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).
Hàng năm, Tết được tổ chức vào ngày mồng 1 tháng 1 nông lịch trên đất nước Việt Nam và ở một vài nước khác có cộng đồng người Việt sinh sống. Trong những ngày Tết, các gia đình sum họp bên nhau, cùng thăm hỏi người thân, mừng tuổi và thờ cúng tổ tiên... Theo phong tục tập quán, Tết thường có những điều kiêng kỵ.
Mục lục
- 1 Từ nguyên
- 2 Lịch sử
- 3 Các giai đoạn chính trong Tết
- 4 Sắm tết
- 5 Dọn dẹp, trang trí
- 6 Ẩm thực ngày Tết
- 7 Những phong tục tập quán và sinh hoạt ngày Tết
- 8 Tín ngưỡng ngày tết
- 9 Tết của người Việt Nam tại nước ngoài (việt kiều)
- 10 Thi ca
- 11 Nhạc Tết
- 12 Những ngày đầu năm theo 12 con giáp
- 13 Liên quan
- 14 Xem thêm
- 15 Chú thích
- 16 Liên kết ngoài
Từ nguyên
Từ tết trong tiếng Việt là âm Hán Việt cổ của chữ “節”. Chữ này có âm Hán Việt là tiết. Tết và tiết đều bắt nguồn từ âm đọc trong tiếng Hán trung cổ của chữ “節”. “Tết” xuất hiện trước “tiết”, vào giai đoạn chữ "tiết" 節 có âm đọc trong tiếng Hán trung cổ là /tset/. “Tiết” xuất hiện sau “tết”, vào giai đoạn âm đọc trong tiếng Hán trung cổ của chữ "tiết" 節 đã biến đổi thành /tsiet/. Ban đầu cả "tết" và "tiết" đều được phát âm giống như âm đọc của chữ "tiết" 節 trong tiếng Hán ở thời điểm chúng được tiếng Việt vay mượn, về sau do sự biến đổi của ngữ âm tiếng Việt cách phát âm của chúng đã thay đổi thành "tết" và "tiết" như hiện nay.[2] Quá trình biến đổi ngữ âm của "tết" và "tiết" đã diễn ra như sau:[2]- /tset/ > /set/ > tết
- /tsiet/ > /siet > tiết
Hiện nay, tại Trung Quốc, Tết Nguyên Đán không còn được gọi là Tết Nguyên Đán nữa. Tại Trung Quốc đại lục, thời Dân quốc, năm thành lập Trung Hoa Dân quốc (năm 1912) được lấy làm mốc khởi thuỷ để định tên năm dương lịch. Năm thành lập Trung Hoa Dân quốc được coi là Trung Hoa Dân quốc năm thứ nhất. Năm sau Dân quốc năm thứ nhất, tức là Công nguyên năm 1913, là Dân quốc năm thứ hai, năm 1914 là Dân quốc năm thứ ba, năm 1915 là Dân quốc năm thứ tư... Lấy số năm Công nguyên trừ cho 1911 thì sẽ ra số năm Dân quốc tương ứng của năm Công nguyên đó.[6][7] Ngày 27 tháng 9 năm 1949, Hội nghị Toàn thể Khoá I Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc quyết định gọi tên các năm dương lịch theo thứ tự trong kỷ nguyên Công lịch, chính thức quy định ngày 1 tháng 1 dương lịch (tức tết Tây) gọi là “Nguyên đán”, ngày mồng một tháng giêng nông lịch gọi là “Xuân tiết” (chữ Hán: 春節, pinyin: chūnjié) (nghĩa là lễ hội mùa xuân).[5][8]
Hai miền Nam Bắc Việt Nam từ sau năm 1975 đều cùng sử dụng múi giờ GMT+7 (trước đó Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sử dụng múi giờ GMT+7, còn Việt Nam Cộng hoà sử dụng múi giờ GMT+8 giống như Trung Quốc), Trung Quốc thì sử dụng múi giờ GMT+8. Do hai nước Việt, Trung sử dụng hai múi giờ khác nhau khi biên soạn lịch nên nông lịch của Việt Nam và Trung Quốc bị lệch thời gian so với nhau, có lúc thì chỉ lệch có một giờ, có lúc thì lệch đến một tháng. Vì vậy mà có năm Việt Nam đón tết cùng ngày với Trung Quốc, có năm lại đón tết trước Trung Quốc.[9][10]
Lịch sử
Nguồn gốc ra đời
Văn hóa Đông Á – thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước – do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã "phân chia" thời gian trong một năm thành 24 tiết khí khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc "giao thừa") trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán. Sau này được biết đến là Tết Nguyên Đán.Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ năm Tam Hoàng Ngũ Đế 2879 TCN thay đổi theo từng thời kỳ. Tuy nhiên, Tam Hoàng Ngũ Đế cũng chỉ là những nhân vật truyền thuyết. Một vài nhà nghiên cứu Việt Nam và phương Tây hiện đại cho rằng trên lãnh thổ Trung Quốc (ngày nay) thời cổ đại có hai chủng tộc sinh sống là người Hán (Mongloid phương Bắc) ở lưu vực Hoàng Hà, người Bách Việt (Mongloid phương Nam) ở nam Dương Tử. Do đặc điểm thời tiết và địa hình, nền kinh tế sơ khai của người Hán là chăn nuôi du mục còn người Bách Việt trồng lúa nước.[11] Vì vậy, các nhà nghiên cứu cho rằng Tết là lễ hội nông nghiệp nên xuất xứ từ các dân tộc Bách Việt phương Nam còn người Hán chỉ tiếp nhận sau này.[cần dẫn nguồn]
Lịch sử Trung Quốc cũng cho rằng Tết được thay đổi qua các thời kỳ. Đời Tam đại, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ "tạo thiên lập địa" như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày tết khác nhau.[12] Đời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa. Song những chi tiết này chỉ tìm thấy trong sách sử Trung Quốc, không có các nguồn tư liệu khác để kiểm chứng. Theo các nghiên cứu gần đây, thực tế cư dân Bách Việt ngày xưa ăn Tết vào tháng Tý (tháng 11 âm lịch ngày nay) đến thời Hán mới chính thức đổi thành tháng Dần (tháng Giêng).[13]
Trước năm 1967, Việt Nam lấy múi giờ Bắc Kinh làm chuẩn cho âm lịch. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành đổi lịch dùng múi giờ GMT+7 làm chuẩn ở miền Bắc. Vì thế hai miền nam bắc Việt Nam đón Tết Mậu Thân hai ngày khác nhau (miền Bắc ngày 29 tháng một trong khi miền Nam thì ngày 30 tháng 1).[14] Từ năm 1976, cả hai miền nam bắc mới dùng chung múi giờ GMT+7.
Các giai đoạn chính trong Tết
Người Việt Nam quan niệm rằng ngày Tết thì tất cả mọi thứ đều phải thật sớm và mới.[15] Do đó trước ngày Tết khoảng hơn 2 tuần, các gia đình đã sắm sửa cho ngày Tết. Họ thường quét dọn, trang trí nhà cửa, mua hoa, sắm thức ăn... thật chu đáo cho ngày Tết. Ngoài ra, tất cả những vật dụng không cần thiết hoặc bị cho là đem lại điềm gở cũng bị vứt bỏ.Cuối năm
Tất niên
Giao thừa
Cúng Giao thừa là lễ cúng để đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến.[17]
Cúng Giao thừa ngoài trời
Theo tục lệ cổ truyền thì Giao thừa được tổ chức nhằm đón các Thiên binh (chữ Hán: 天兵, tức 12 vị Hành khiển). Lúc đó họ đi thị sát dưới hạ giới, rất vội không kịp vào tận bên trong nhà được, nên bàn cúng thường được đặt ở ngoài cửa chính mỗi nhà. Hết một năm, vị Hành khiển (行遣) cũ đã cai quản Hạ giới trong năm cũ sẽ bàn giao công việc cho vị Hành khiển mới đi xuống sẽ cai quản Hạ giới trong năm mới. Mỗi năm có một vị, sau 12 năm thì các vị Hành khiển sẽ luân phiên trở lại. Mười hai vị Hành khiển và Phán quan (判官) gồm:- Năm Tý: Chu Vương Hành Khiển, Thiên Ôn Hành Binh chi Thần, Lý Tào Phán quan.
- Năm Sửu: Triệu Vương Hành Khiển, Tam thập lục phương Hành Binh chi Thần, Khúc Tào Phán quan.
- Năm Dần: Ngụy Vương Hành Khiển, Mộc Tinh chi Thần, Tiêu Tào Phán quan.
- Năm Mão: Trịnh Vương Hành Khiển, Thạch Tinh chi Thần, Liêu Tào Phán quan.
- Năm Thìn: Sở Vương Hành Khiển, Hỏa Tinh chi Thần, Biểu Tào Phán quan.
- Năm Tỵ: Ngô Vương Hành Khiển, Thiên Hải chi Thần, Hứa Tào Phán quan.
- Năm Ngọ: Tấn Vương Hành Khiển, Thiên Hao chi Thần, Nhân Tào Phán quan.
- Năm Mùi: Tống Vương Hành Khiển, Ngũ Đạo chi Thần, Lâm Tào Phán quan.
- Năm Thân:Tề Vương Hành Khiển, Ngũ Miếu chi Thần, Tống Tào Phán quan.
- Năm Dậu: Lỗ Vương Hành Khiển, Ngũ Nhạc chi Thần, Cự Tào Phán quan.
- Năm Tuất: Việt Vương Hành Khiển, Thiên Bá chi Thần, Thành Tào Phán quan.
- Năm Hợi: Lưu Vương Hành Khiển, Ngũ Ôn chi Thần, Nguyễn Tào Phán quan.
Lễ vật gồm các chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu hoặc nước và vàng mã. Các quan mặc dầu phút bàn giao bận rộn khẩn trương nhưng vì là... người nhà trời nên có tài thấu hiểu ngay "Ruột gan" của gia chủ. Nếu có ý cầu lợi, mua chuộc, đút lót, các vị chỉ nhìn dấu hiệu ở khói hương, lửa đèn là biết ngay, và lập tức các vị dông thẳng, không thèm ngó ngàng gì đến vật cúng giao thừa của các nhà cầu lợi ấy. Trái lại, những nhà chân chất, thật thà, sống bằng lao động, ăn ở tử tế thì có khi chỉ cần chén rượu, nén hương (như Thổ công đánh tín hiệu qua hương đèn), các vị có chức trách biết ngay mà vui vẻ thưởng thức, dốc lòng phù hộ.
Lễ trừ tịch còn là lễ để "khu trừ ma quỷ", do đó có từ "trừ tịch". Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên còn mang tên là lễ giao thừa.
Cúng Giao thừa trong nhà
Cỗ mặn gồm có bánh chưng, giò, chả, xôi gấc, thịt gà, xôi các loại, rượu, bia và các loại thức uống khác. Các món ăn mặn khác tùy theo nhu cầu của gia đình. Cỗ ngọt và chay bao gồm Hương, hoa, đèn nến, bánh kẹo, mứt tết.
Khi cúng Giao thừa trong nhà, các thành viên trong gia đình thường đứng trang nghiêm trước bàn thờ (không cần tất cả, chỉ cần gia chủ và vài ba người nữa) để khấn tổ tiên và xin được các cụ phù hộ độ trì trong nhà mới và cầu an khang thịnh vượng, sức khỏe tốt. Trước khi khấn Tổ tiên để mời tiền nhân về ăn Tết cùng với con cháu hậu thế, các gia chủ thường khấn thần Thổ Công để xin phép cho tổ tiên về ăn Tết. Ông là vị thần cai quản trong nhà (thường bàn thờ tổ tiên ở giữa, bàn thờ Thổ Công ở bên trái).
Ba ngày đầu năm
Ba ngày Tân niên
"Ngày mồng Một tháng Giêng" là ngày Tân niên đầu tiên và được coi là ngày quan trọng nhất trong toàn bộ dịp Tết. Không kể những người tốt số, hợp tuổi được mời đi xông đất, vào sáng sớm ngày này, người Việt cổ thường không ra khỏi nhà, chỉ bày cỗ cúng Tân niên, ăn tiệc và chúc tụng nhau trong nội bộ gia đình. Đối với những gia đình đã tách khỏi cha mẹ và cha mẹ vẫn còn sống, họ đến chúc tết các ông bố theo tục: Mồng Một Tết cha."Ngày mồng Hai tháng Giêng" là ngày có những hoạt động cúng lễ tại gia vào sáng sớm. Sau đó, người ta chúc tết các bà mẹ theo tục Mồng Hai Tết mẹ. Riêng đàn ông chuẩn bị lập gia đình còn phải đến nhà cha mẹ vợ tương lai (nhạc gia) để chúc Tết theo tục Đi sêu.
"Ngày mồng Ba tháng Giêng" là ngày sau khi cúng cơm tại gia theo lệ cúng ít nhất đủ ba ngày Tết, các học trò thường đến chúc Tết thầy dạy học theo tục Mồng Ba Tết thầy[18]. Trong những ngày này người ta thường đi thăm viếng, hỏi thăm nhau những điều đã làm trong năm cũ và những điều sẽ làm trong năm mới.
Đối với cộng đồng người Công giáo Việt Nam, ba ngày đầu năm họ thường tham dự thánh lễ ở nhà thờ với ý cầu nguyện cho từng ngày: mồng Một cầu nguyện bình an cho năm mới, mồng Hai cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ nếu còn sống và tưởng nhớ nếu đã qua đời, mồng Ba cầu nguyện thánh hóa cho công ăn, việc làm trong năm mới được tốt đẹp.
Xông đất
Xông đất (hay đạp đất, mở hàng) là tục lệ đã có lâu đời ở Việt Nam. Nhiều người quan niệm ngày Mồng Một "khai trương" một năm mới. Họ cho rằng vào ngày này, nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, may mắn, cả năm cũng sẽ được tốt lành, thuận lợi. Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ.[19] Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm xem những người trong bà con hay láng giềng có tính vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành công để nhờ sang thăm. Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc tết chừng 5 đến 10 phút chứ không ở lại lâu, cầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy thông suốt.Cách chọn tuổi xông đất:
- Tuổi Giáp hạp với Kỷ mà kỵ với Canh – Mậu.
- Tuổi Ất hạp với Canh mà kỵ với Tân – Kỷ.
- Tuổi Bính hạp với Tân mà kỵ với Nhâm – Canh.
- Tuổi Đinh hạp với Nhâm mà kỵ với Quý – Tân.
- Tuổi Mậu hạp với Quý mà kỵ với Giáp – Nhâm.
- Tuổi Kỷ hạp với Giáp mà kỵ với Ất – Quý.
- Tuổi Canh hạp với Ất mà kỵ với Bính – Giáp.
- Tuổi Tân hạp với Bính mà kỵ với Đinh – Ất.
- Tuổi Nhâm hạp với Đinh mà kỵ với Mậu – Bính.
- Tuổi Quý hạp với Mậu mà kỵ với Kỷ – Đinh.
Xuất hành và hái lộc
Xuất hành là lần đi ra khỏi nhà đầu tiên trong năm, thường được thực hiện vào ngày tốt đầu tiên của năm mới để đi tìm may mắn cho bản thân và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày Hoàng đạo, giờ Hoàng đạo và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần, hỉ thần... Tại miền Bắc, nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người Việt còn có tục bẻ lấy một cành lộc để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục hái lộc. Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si... là những loại cây quanh năm tươi tốt và nảy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ. Khác với miền Bắc, miền Trung không có tục hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây cối trong các đền chùa ở miền Trung vẫn giữ nguyên lá xanh biếc suốt cả mùa xuân.[19]Tuy nhiên việc hái lộc ngày nay đã có những quan niệm trái chiều so với trước đó là: - Việc hái lộc không nên vì có thể có những cành lộc có "Vong" (linh hồn) bám theo. Khi chúng ta hái lộc về vô tình sẽ mang "Vong" về theo, nếu "Vong" tốt thì không sao nhưng nếu "Vong" xấu thì có thể làm cho nhà cửa chúng ta không may mắn... Đây là vấn đề mang tinh Duy tâm tuy nhiên nó cũng có cái lý của nó. - Tiếp theo việc hái lộc đôi khi làm ảnh hưởng đến cây xanh cảnh quan đô thị vì tâm lý mọi người đều muốn đem thật nhiều lộc về nhà cầu may, do vậy đã không ít trường hợp làm hỏng hết cây cối gây ảnh hưởng đến môi trường... - Cuối cùng việc hái lộc đôi khi dẫn đến xô xát do việc tranh cướp hoặc hái "trộm" lộc trong các cơ quan nhạy cảm như Ngân hàng chẳng hạn... Những việc làm này không biết có mang lại may mắn không nhưng nó phản ánh mặt xấu của Văn hóa ứng xử của những người trong cuộc...
Vào những ngày đầu năm, khi mặt trời mọc, người ta đi ra khỏi nhà xem chiều gió thổi và có thể đoán được năm mới hên hay xui chẳng hạn:
- Gió Nam: chỉ đại hạn;
- Gió Tây: chỉ cướp bóc loạn lạc;
- Gió Tây Nam: chỉ bệnh dịch tả;
- Gió Bắc: chỉ được mùa vừa phải;
- Gió Tây Bắc: chỉ được mùa đỗ, đậu;
- Gió Đông: chỉ có lụt lớn.[19]
Chúc Tết
Sáng mồng Một Tết còn gọi là ngày Chính đán, con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ Tiên và chúc tết ông bà, các bậc huynh trưởng. Theo quan niệm, cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổi, bởi vậy ngày mồng Một Tết là ngày con cháu "chúc thọ" ông bà và các bậc cao niên (ngày xưa, các cụ thường không nhớ rõ ngày tháng sinh nên chỉ biết Tết đến là tăng thêm một tuổi).
Tục thăm viếng
- Thăm viếng họ hàng là để gắn kết tình cảm gia đình họ hàng. Lời chúc tết thường là sức khỏe, phát tài phát lộc, gặp nhiều may mắn, mọi ước muốn đều thành công... Những người năm cũ gặp rủi ro thì động viên nhau tai qua nạn khỏi hay của đi thay người nghĩa là trong cái họa cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành.
- Đến thăm những người hàng xóm của mình và những gia đình sống gần với gia đình mình, chúc họ những câu tốt lành đầu năm mới. Những chuyến thăm hỏi này giúp gắn kết mọi người với nhau, xóa hết những khúc mắc của năm cũ, vui vẻ đón chào năm mới.
- Đến thăm những người bạn bè, đồng nghiệp và những người thân thiết với mình để chúc họ những câu tốt lành, giúp tình cảm bạn bè gần gũi hơn.
Mừng tuổi
Theo truyền thuyết:
- Ngày xưa có một con yêu quái thường xuất hiện vào đêm Giao thừa khiến trẻ con giật mình khóc thét lên. Hôm sau đứa trẻ nhức đầu, sốt cao, làm cho bố mẹ không dám ngủ, phải thức canh phòng yêu quái. Có một cặp vợ chồng nọ mới sinh được một mụn con trai kháu khỉnh. Tết năm đó, có 8 vị tiên dạo qua, biết trước cậu bé sẽ gặp nạn liền hóa thành 8 đồng tiền ngày đêm túc trực bên cậu bé. Sau khi cậu bé ngủ say, hai vợ chồng lấy giấy đỏ gói những đồng tiền này lại và đặt lên gối con rồi ngủ. Nửa đêm, con yêu quái xuất hiện định làm hại đứa trẻ thì từ chiếc gối loé lên những tia vàng sáng rực, khiến nó khiếp vía bỏ chạy.[20]
Hóa vàng
Ngày mồng 4 tháng Giêng theo lịch cổ là ngày con nước. Trong ngày này, người Việt làm lễ cúng tổ tiên đã về ăn Tết với con cháu và đốt nhiều vàng mã để tiền nhân về cõi âm có thêm tiền vốn đầu năm, đặng phù hộ độ trì cho con cháu hậu thế làm ăn phát đạt. Tại nhiều vùng ở Đồng bằng Bắc Bộ, người Việt có tục hát chèo đò đưa tổ tiên trở lại thế giới bên kia.Tục hóa vàng ngày mồng 4 hoặc mồng 5, không ít gia đình vẫn theo truyền thống cũ: làm cơm, đốt vàng mã gửi người thân khuất bóng lời cầu nguyện một năm mới nhiều may mắn.[22] Theo nhà sử học Dương Trung Quốc, tục hoá vàng dựa trên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, vật hoá vàng thường gắn với đời sống thường nhật, để thấy con người ở thế giới vô hình bên kia sống gần với dương gian.[23] Vào ngày mồng 4 và mồng 5 tháng Giêng, người ta kiêng xuất hành vì đây là ngày không tốt.
Khai hạ
Ngày mồng 7 tháng Giêng (cũng có thể là mồng 6 tháng Giêng) là ngày cuối cùng của chuỗi lễ hội Tết. Trong ngày này, người Việt làm lễ hạ Cây nêu, gọi là lễ Khai hạ, kết thúc dịp Tết Nguyên đán và bắt đầu bước vào việc làm ăn trong năm mới từ ngày mồng 8 hoặc mồng 9 tháng Giêng.[24]Sắm tết
Hiện nay, nhiều chợ Gốm đã được mở vào ngày giáp Tết để phục vụ người dân.[26]
Dọn dẹp, trang trí
Mâm ngũ quả
Mâm ngũ quả của người miền Bắc gồm: chuối, bưởi, đào, hồng, quýt hay là chuối, ớt, bưởi, quất, lê. Có thể thay thế bằng cam, lê-ki-ma, táo, mãng cầu. Nói chung, người miền Bắc không có phong tục khắt khe về mâm ngũ quả và hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày được, miễn là nhiều màu sắc.
Mâm ngũ quả người miền Nam gồm mãng cầu Xiêm, sung, dừa, đu đủ, xoài với ngụ ý cầu sung vừa đủ xài.[27] Người miền Nam thường kiêng kỵ chưng trái có tên mang ý nghĩa xấu (kể cả khi đọc trại) như chuối - chúi nhủi, cam - cam chịu, lê - lê lết, sầu riêng, bom (táo), lựu - lựu đạn... và không chọn trái có vị đắng, cay.
Cây nêu
Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơiđây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu... Vào buổi tối, người ta treo một chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch còn cho đốt pháo ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều không maỵ. Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng chạp, là ngày Táo quân về trời chính vì từ ngày này cho tới đêm Giao thừa vắng mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Ngày 7 tháng Giêng triệt hạ, gọi là "hạ nêu" phàm những khoản vay mượn thiếu thốn trong tiết ấy không được đòi hỏi, đợi ngày hạ nêu rồi mới được đòi hỏi".
Tranh tết
Tranh Tết từ lâu đã trở thành một tập quán, một thú chơi của người dân Việt Nam và không chỉ người có tiền mới chơi tranh mà người ít tiền cũng có thể chơi tranh. Nó là một phần không thể thiếu trong không gian của ngày Tết cổ truyền xưa kia. Những màu sắc rực rỡ như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình của người Việt.
Câu đối Tết
Câu đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nên lưu ý là từ đối (對) ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi. Câu đối là một trong những thể loại của Văn học Trung Quốc và Việt Nam.
Ngoài ra, ngày nay vẫn còn tồn tại tục "xin chữ" lấy hên đầu năm, với việc mua những tấm thư pháp viết chữ Hán, chữ Nôm, chữ Việt, với mục đích ấy, nhiều phố ông đồ với những ông đồ viết những tấm thư pháp bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ Việt đã được tái lập tại Sài Gòn và Hà Nội.[30] Những năm gần đây, để chấn chỉnh tình trạng lộn xộn và kinh doanh cẩu thả, tại Văn Miếu, Hà Nội đã có những kỳ thi sát hạch các ông đồ trước Tết.[31]
Hoa tết
Hoa đào
Sự tích hoa đào ngày Tết:
Ngày xưa, ở phía Đông núi Sóc Sơn, có một cây hoa đào mọc đã lâu đời. Cành lá đào sum suê, to lớn khác thường, bóng rậm che phủ cả một vùng rộng. Có hai vị thần tên là Trà và Uất Lũy trú ngụ ở trên cây hoa đào khổng lồ này, tỏa rộng uy quyền che chở cho dân chúng khắp vùng. Quỷ dữ hay ma quái nào bén mảng lui đến ắt khó mà tránh khỏi sự trừng phạt của 2 vị thần linh. Ma quỷ rất khiếp sợ uy vũ sấm sét của hai vị thần, đến nỗi sợ luôn cả cây đào. Chỉ cần trông thấy cành hoa đào là bỏ chạy xa bay. Đến ngày cuối năm, cũng như các thần khác, hai thần Trà và Uất Lũy phải lên thiên đình chầu Ngọc Hoàng.
Trong mấy ngày Tết, 2 thần vắng mặt ở trần gian, ma quỷ hoành hành, tác oai tác quái. Để ma quỷ khỏi quấy phá, dân chúng đã đi bẻ cành hoa đào về cắm trong lọ, nhỡ ai không bẻ được cành đào thì lấy giấy hồng điều vẽ hình 2 vị thần linh dán ở cột trước nhà, để xua đuổi ma quỷ.
Từ đó, hàng năm cứ mỗi dịp Tết đến, mọi nhà đều cố gắng đi bẻ cành hoa đào về cắm trong nhà trừ ma quỷ.[34]
Hoa mai
Cây quất
Ẩm thực ngày Tết
- Bánh truyền thống: bánh chưng, bánh giầy, bánh tét... Đây là các loại bánh đặc trưng cho phong tục ăn uống ngày Tết ở Việt Nam. Bánh chưng và bánh giầy còn được gắn với các sự tích cổ của các vua Hùng, tổ tiên của người Việt.
- Mứt Tết và các loại bánh kẹo khác để thờ cúng, sau đó dọn ra để đãi khách. Mứt có rất nhiều loại như: mứt gừng, mứt bí, mứt cà chua, mứt táo, mứt dừa, mứt quất, mứt sầu riêng, mứt mít, mứt khoai, mứt hạt sen, mứt chà-là, mứt lạc, mứt me...
- Trái cây, mâm ngũ quả, và đặc biệt là dưa hấu đỏ không thể thiếu trong những gia đình miền Nam. Dưa hấu được chưng cúng nơi bàn thờ Tổ tiên, bên cạnh các loại mứt, mâm ngũ quả, bánh kẹo..., và nhiều quả dưa còn được gắn thêm chữ Phước - Lộc - Thọ. Sáng mồng một Tết, người nhà cử người bổ quả dưa để bói cầu may và lấy hên xui.
- Kẹo bánh thì đa dạng hơn như: Kẹo bột, kẹo dồi, kẹo vừng (mè), kẹo thèo lèo, kẹo dừa, kẹo cau, kẹo đậu phụng (kẹo cu-đơ), bánh chè lam... Ngoài ra, Tết còn có hạt dưa, hạt bí, hạt hướng dương, hạt điều, hạt dẻ rang...
- Thức uống ngày Tết: Phổ biến nhất vẫn là rượu. Các loại rượu truyền thống của dân tộc như rượu nếp thơm, nếp cái hoa vàng (người Kinh), nếp nương (người Thái), nếp cẩm (người Mường), rượu San lùng, rượu ngô (người H'Mong, người Dao), rượu Mẫu sơn (người Tày, người Nùng), rượu Bàu đá (Trung bộ), rượu đế (Nam Bộ)... thường được dùng. Sau bữa ăn, người ta thường dùng trà xanh. Ngày nay còn có thêm các loại rượu của phương Tây, bia và các loại nước ngọt.
- Cỗ Tết: dịp Tết người Việt thường tổ chức ăn uống lớn, gọi là ăn cỗ. Các món cỗ trong nhiều gia đình ở miền Bắc có thể có gà luộc, bóng bì, canh măng, chân giò có nấm hương, miến nấu lòng gà, nem rán, xôi gấc, xôi đỗ, thịt gà, thịt đông, món xào, giò lụa, giò mỡ, nộm, dưa hành muối...; bữa ăn tất niên của người Huế thường có xôi, thịt heo quay, cá rô chiên, canh rau (hoặc canh khổ qua). và mâm cỗ cúng tổ tiên, thường có khoai, sắn, lạc và chè.[37] Ở làng Vũ Đại, Hà Nam phải có món cá kho, ở làng Sơn Vi, Phú Thọ thường có thêm chè lam, người dân Quảng Nam phải có bánh tổ Hội An.[38]
- Ngoài ra, các gia đình miền Nam thường có thêm nồi thịt kho nước dừa (thịt kho rệu) và nồi khổ qua hầm và nem bì, dưa giá miền Nam, củ kiệu ngâm, bánh tráng (để quấn) để ăn mấy ngày tết.[39][40] Miền Bắc có cơm rượu và thịt đông, dưa hành [41] và ngày trước có chè kho, mọc vân ám, thang ngày Tết, hiện nay ít được biết đến.[42][43] Miền Trung có dưa món và món tré, giống giò thủ của miền Bắc nhưng nhiều vị củ riềng, thịt chua và tai heo, người Huế có thêm món me ngâm đường.[38] Thông thường, người nội trợ miền Nam lục tỉnh nghỉ ngơi, không nấu nướng trong 3 ngày Tết, mà chỉ dùng thức ăn đã được chuẩn bị sẵn trước Tết.
Những phong tục tập quán và sinh hoạt ngày Tết
Phong tục ngày Tết
Phong tục thất truyền
- Sêu Tết: Ngày xưa các cặp trai gái đang trong thời kỳ hứa hôn, trước Tết người con rể tương lai phải mang lễ đến biếu bố mẹ vợ [44].
- Trồng và hạ nêu: Trên cây treo một số vật tượng trưng gọi là bùa nêu để trừ tà quỷ.[44]
- Hát sắc bùa: Sau giao thừa, trẻ em nhà nghèo tụ thành từng nhóm, đến cửa các nhà vừa hát vừa gõ trống. Chủ nhà bao giờ cũng mở cửa ra phát tiền mừng tuổi cho các em để hai bên cùng gặp hên.[44]
- Gánh nước: Ngay sau Giao thừa hoặc sáng mồng Một, người nhà mang thùng ra sông hoặc ra giếng làng gánh nước về đổ đầy chum vại, với hy vọng sang năm mới "của cải như nước non".[44]
- Chúc Tết theo thứ tự: Chúc theo thứ tự Mồng một nhà trai, mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy. Ngày nay tùy theo thời tiết, đường sá, tiện bên nào thì đến bên đó trước.[44]
- Lạy sống ông bà: Con cháu đến chúc Tết việc đầu tiên là phải vào quỳ lạy sống các cố và ông bà.[44]
Phong tục đại chúng
- Mua và xin câu đối trước Tết: Nhiều người ta mua một câu đối hay hoặc một vài chữ Nho, chữ Hán-Nôm, thư pháp chữ Việt mang ý nghĩa cầu an, cầu tài lộc cho năm mới.[44]
- Mâm ngũ quả và bàn thờ gia tiên: Được bày biện cầu kỳ đầy đủ vật lễ. Người nội trợ có ý thức mua đủ năm loại quả và trình bày sao cho đẹp mắt và có ý thể hiện vẻ sung túc của gia đình.[44]
- Xông nhà: Người ta nhờ người hợp tuổi, hợp mệnh đến xông nhà, cầu mong sang năm lấy được vía tốt của người xông nhà.[44]
- Chọn hướng xuất hành: Sau giao thừa, có người xuất hành đi du xuân luôn. Họ chọn một hướng tương hợp tương sinh với mình với con giáp của năm để xuất hành cầu tài đón lộc.[44]
- Mừng tuổi: Chúc mừng tuổi người lớn (ông bà, cha mẹ, họ hàng) và lì xì cho trẻ nhỏ.
- Lễ chùa: Có người cả năm không đi lễ, nhưng đến Tết nhất thiết phải qua chùa thắp nén hương, dâng tiền giọt dầu hoặc tiền công đức cho chùa. Vào ngày đầu năm, tại chốn linh thiêng, người ta tin rằng điều cầu khấn của mình có nhiều khả năng thành hiện thực.[44]
- Mua muối: Đầu năm mọi nhà đều mua muối để cầu may mắn đến.[45] Vẫn có câu là Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi.
- Khai ấn và Khai bút: Đầu Xuân, nhằm vào ngày tốt, giờ tốt, người có chức tước khai ấn (đóng con dấu lần đầu tiên trong năm); học trò, sĩ phu khai bút (viết bài hoặc một đoạn văn, một câu thơ... đầu tiên trong năm); nhà nông khai canh, (cày ruộng, làm đất, trồng, cấy lần đầu tiên trong năm); người buôn bán thì "khai thương", (mở hàng lần đầu tiên trong năm)... Sau ngày mùng Một, dù có mải vui cũng chọn ngày để khai nghề, làm lấy ngày. Nếu như mùng Một tốt thì chiều mùng Một bắt đầu. Riêng khai bút thì Giao thừa xong, chọn giờ Hoàng đạo không kể mùng Một là ngày tốt hay xấu. Người thợ thủ công nếu chưa ai thuê mướn đầu năm thì cũng tự làm cho gia đình một sản phẩm, một dụng cụ gì đó. Người buôn bán, vì ai cũng chọn ngày tốt nên phiên chợ đầu xuân vẫn đông, mặc dầu người bán chỉ bán lấy lệ, người ta thường chợ Tết cùng với du xuân (đi chơi Tết).
- Đi lễ chùa và xin xăm (miền Bắc gọi là xin thẻ): Không ai biết chắc chắn phong tục này có từ bao giờ và tại sao nhưng trong những ngày đầu năm âm lịch thì rất nhiều người thích đi lễ ở các lăng tẩm, đền chùa để cúng bái và xin xăm nhất là vào buổi sáng mồng một, phong tục này thường được tiến hành chung với tục lệ chọn hướng xuất hành và hái lộc. Xin xăm là một hình thức tin vào các thẻ xăm có ghi lời sấm báo trước điềm lành hay dữ trong năm và thường cần có thầy bàn xăm. Ở miễn Bắc có tục "bốc quẻ thẻ" giống như tục "xin xăm" ở phía Nam. Người xin thẻ dâng một lễ mọn rồi chọn lấy một quẻ thẻ bằng tre viết chữ Hán. Trên quẻ thẻ thường ghi một câu văn ngắn gọn rút từ điển tích Trung Hoa cổ. Căn cứ câu văn ấy, người xin thẻ có thể luận ra "tiền định" cuộc đời mình trong năm đó. Nếu không thông thạo Hán Văn, có thể thuê thầy đồ luận giải giúp. Ngày nay, người ta thường bỏ thẻ tre và thay vào đó bằng những tờ bướm in chữ quốc ngữ với lời giải được soạn sẵn.
Sinh hoạt ngày tết
- Áo quần mới: Ngày xưa, trước Tết một thời gian ngắn, các bà các mẹ trong nhà phải thức khuya quay tơ, dệt vải, may áo quần mới cho cả nhà. Công việc này thường kết thúc vào ngày cuối năm. Đến sáng mùng Một Tết, cả nhà dậy sớm, thay quần áo mới để làm lễ gia tiên. Người ta cho rằng cần phải rũ bỏ những cái cũ, cái không may mắn đi theo quần áo cũ và đón một năm mới với nhiều hi vọng và niềm vui mới từ bộ quần áo mới đó.[46]
- Dọn dẹp nhà cửa trước Tết: Do tục kiêng cữ quét nhà trong ngày Tết.[47] Theo quan niệm dân gian, việc quét nhà trong ngày Tết sẽ quét đi theo cả lộc xuân (xác pháo đốt trong đêm giao thừa), người quét nhà sẽ bị "rông" cả năm; (rông: được hiểu như sự xui xẻo).
- Trả nợ cũ: Đối với nhiều người Việt, dịp tất niên là dịp trả nợ cũ, xóa bỏ xích mích của năm cũ, để hướng tới năm mới vui vẻ hòa thuận hơn.[47]
- Trò chơi dân gian: bịt mắt bắt dê, múa võ, hát bội, hát cải lương, hát chèo, đánh đu, thi leo cột mỡ, đập niêu, chọi gà; bài chòi; chơi tổ tôm điếm; chơi cờ người và nhiều trò dân gian cổ truyền khác.
- Cờ bạc: Ngày xưa các gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc rượu chè nhưng trong dịp Tết thì tam cúc, cờ gánh, cờ nhảy, chắn, tổ tôm, lắc bầu cua,... ai thích trò nào chơi trò ấy. Đến lễ khai hạ (hạ nêu) thì xé bộ tam cúc, cất bộ tổ tôm...hoặc đốt các bộ bài trong lễ hóa vàng.
- Treo quốc kỳ: Những năm sau ngày thống nhất đất nước, tại Việt Nam, ngày tết cũng như các ngày lễ trong năm, chính phủ đều khuyến khích treo quốc kỳ. Các công sở, công ty, trường học, nơi sinh hoạt công cộng thường treo quốc kỳ kèm bích chương "Chúc mừng năm mới" và các loại cờ ngũ sắc.
- Cúng đưa và Hạ nêu: Trong những ngày Tết, người Việt quan niệm rằng có sự hiện diện của Ông Bà tổ tiên nên bàn thờ luôn được thắp hương và cúng cơm mỗi ngày. Thường thì chiều mồng Bốn hay mồng Năm cúng tiễn đưa Ông Bà, chiều mồng Bảy cúng hạ nêu.
- Đốt pháo thường hay có trong dịp cúng tất niên hay thời khắc giao thừa ngày Tết cổ truyền. Từ năm 1994, nhà nước Việt Nam đã cấm đốt pháo, buôn bán và nhập khẩu pháo bằng Chỉ thị số 406/CT-TTg ngày 8 tháng 8 [48] vì tính chất nguy hiểm dễ gây sát thương của nó. Thay vào đó, chính quyền tổ chức các đêm bắn pháo hoa cho người dân thưởng thức.
Lễ hội Tết
Từ năm 2004, tại Thành phố Hồ Chí Minh có Đường hoa Nguyễn Huệ và Đường sách Tết tại phường Bến Nghé, Quận 1 và Hội hoa Xuân thường niên tại công viên Tao Đàn[49][50] và từ năm 2009, tại Hà Nội có Lễ hội phố hoa Hà Nội tại phường Tràng Tiền và Lý Thái Tổ thuộc quận Hoàn Kiếm để trang hoàng hoa cho khách thưởng ngoạn, tuy không tổ chức hàng năm và phố Ông đồ ở Văn Miếu.[51] Từ năm 2007, tại phường 7 thuộc địa phận thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang có Đường hoa Hùng Vương tổ chức hàng năm.[52] Ngoài ra còn Đường hoa Bạch Đằng tại Đà Nẵng, Đường hoa Trấn Biên tại Biên Hòa, Đường hoa Bạch Đằng tại Bình Dương, Đường hoa 16/4 tại Ninh Thuận, Đường hoa Phú Mỹ Hưng tại Khu đô thị Phú Mỹ Hưng, Thành phố Hồ Chí Minh.[53]
Ngoài hội Tết, nhiều địa phương còn tổ chức các lễ hội mùa Xuân đặc biệt, chẳng hạn như:
Tại Hà Nội, vào ngày mùng 5 Tết, lễ hội Quang Trung được tổ chức ở gò Đống Đa, thuộc địa phận phường Quang Trung, quận Đống Đa và lễ hội Cổ Loa tại xã Cổ Loa thuộc huyện Đông Anh, lễ hội chùa Hương tại xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức ngày mùng 4.
Các nơi khác có Chợ Âm Dương mùng 4 ở phường Võ Cường, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh và Chợ Viềng mùng 7 tại xã Kim Thái, huyện Vụ Bản và tại thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực thuộc tỉnh Nam Định, Hội xuân Núi Yên Tử ở xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí thuộc tỉnh Quảng Ninh.
Tại làng cổ Vân Luông thuộc phường Vân Phú nằm ở thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ có hội ném đá, gọi là Ném Chài vào ngày 3 tháng giêng. Từ năm 1946 hội Ném Chài thôi tổ chức vì nguy hiểm tính mạng. Năm 2004 lễ hội được phục hồi nhưng thay ném đá bằng túi vải đựng cát.[54]
Tại xã Đông Hoàng, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa có phiên chợ Chuộng tổ chức vào mùng 6 tết, người dân đến mua bán một số sản vật nông nghiệp để lấy may, còn thanh niên thì đánh nhau để cầu may.
Tín ngưỡng ngày tết
Điềm lành
- Hoa mai: sau Giao thừa, nếu hoa mai (loại 5 cánh) nở thêm nhiều và đầy đặn thì đó là một điềm may. Và may mắn hơn nữa khi có một hoặc vài bông hoa 6 cánh.[55][56]
- Chó lạ vào nhà: Tục ngữ Mèo đến nhà thì khó, Chó đến nhà thì sang.[55]
- Cây đào: Nếu có nhiều cánh kép (hoa kép) 3 lớp (hàng) trên đài hoa và có hình dáng như bông hồng thì sẽ có nhiều phúc lộc.[55]
- Cây quất: Nếu cây có nhiều chồi xanh mọc thì năm đó sẽ có nhiều lộc. Nếu có đủ Tứ quý: Quả chín, quả xanh, hoa và lộc thì sẽ may mắn và thành đạt cả năm.
Kiêng kỵ
Theo quan niệm trong ngày đầu năm (Nguyên Đán) mà có nhiều điều tốt đẹp thì cả năm đó chắc chắn sẽ có nhiều điều tốt đẹp đến cho mọi người, có sự giống và khác nhau giữa các miền với niềm tin chính để giữ điều lành trong năm mới. Điển hình, người Việt có một số kiêng kỵ như sau:Miền Bắc
- Kỵ mai táng: Ngày Tết Nguyên Đán là ngày vui của toàn dân tộc, ngày mở đầu cho vận hội hanh thông của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng. Gia đình phải tạm gác mối sầu riêng để hoà chung với niềm vui toàn dân tộc. Vì vậy có tục lệ cất khăn tang trong ba ngày Tết. Nhà có đại tang kiêng đi chúc Tết, mừng tuổi bà con, xóm giềng, ngược lại bà con xóm giềng lại cần đến chúc Tết và an ủi gia đình bất hạnh.[57] Trường hợp gia đình có người chết vào ngày 30 tháng chạp mà gia đình có thể định liệu được thì nên chôn cất cho kịp trong ngày đó, đa số các gia đình kiêng để sang ngày mùng Một đầu năm. Trường hợp chết đúng ngày mùng Một Tết thì chưa phát tang vội nhưng phải chuẩn bị mọi thứ để sáng mùng Hai làm lễ phát tang.
- Ngày mùng Một Tết người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà mình, vì quan niệm lửa là đỏ là may mắn. Cho người khác cái đỏ trong ngày mùng Một Tết thì cả năm đó trong nhà sẽ gặp nhiều điều không may như làm ăn thua lỗ, trong nhà lủng củng, ra đường hay gặp tai bay vạ gió...[58]
- Kiêng cho nước đầu năm vì nước được ví như nguồn tài lộc trong câu chúc tiền vô như nước, nếu cho nước thì coi như mất lộc.[58]
- Trong ngày này, người ta kiêng quét nhà vì theo một điển tích của Trung Quốc, nếu quét nhà thì năm đó gia cảnh sẽ nghèo túng, khánh kiệt. Khi hốt rác trong nhà đổ đi thì thần Tài sẽ đi mất.[58]
- Ngày đầu năm cũng như ngày đầu tháng, người ta rất kiêng kỵ việc vay mượn hay trả nợ, cho vay. Người xưa quan niệm không nên vay tiền hoặc đồ đạc vào những ngày đầu năm mới, điều đó có thể làm chúng ta rơi vào cảnh túng thiếu cả năm, không may mắn.
- Trong ăn uống, người ta kiêng ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt... Nếu ăn những thứ này vào dịp đầu năm hay đầu tháng sẽ "xúi quẩy".
- Ngoài ra, người già cũng khuyên con cháu trong ngày này không được đánh vỡ bát đĩa, ấm chén, cãi nhau, chửi nhau, kiêng những điều không vui xảy ra với gia đình.
- Người ta thường kiêng khóc lóc, buồn tủi hoặc nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa trong dịp Tết.
- Kiêng mặc quần áo màu trắng và đen: Theo quan niệm của người xưa, màu trắng và đen là màu của tang lễ, chết chóc, vì vậy những ngày đầu năm thì phải mặc trang phục với những màu sắc sặc sỡ và thu hút sự chú ý, tạo nên sự phấn khởi và vui vẻ để đón chào năm mới, như: màu hồng, đỏ, vàng, xanh...
- Kiêng nói to, cãi nhau, nói xấu hay mắng người khác.
- Kiêng đi chúc Tết vào sáng Mồng Một Tết nếu không được gia chủ mời vì sợ sẽ mang đến điều không tốt đẹp cho chủ nhà trong năm mới. Theo phong tục xông đất, người đầu tiên bước vào nhà ai trong ngày mùng một Tết chính là người quyết định đem lại sự may mắn hoặc xui xẻo cho gia đình ấy trong cả năm.
- Ngày mồng 5 tháng giêng Âm lịch là ngày nguyệt kỵ, người Việt thường tin rằng ngày này không thích hợp cho xuất hành.[59]
Miền Trung
[60]- Kiêng ăn các món chế biến từ tôm vì sợ năm mới đi giật lùi như tôm.
- Kiêng ăn trứng vịt lộn, thịt vịt bởi đầu năm mà ăn món này thì sẽ xúi quẩy.
- Một số vùng kiêng mặc đồ trắng suốt tháng Giêng vì đó là biểu tượng của tang tóc.
- Kiêng quét nhà vì đó là xua đuổi thần Tài Lộc đầu năm.
- Tránh nhăn nhó, cau có, khóc lóc và cãi vã trong ngày đầu năm vì quan niệm nó làm cả năm sẽ gặp chuyện không may.
Miền Nam
[60]- Kiêng để cối xay gạo trống vào ngày đầu năm vì đó là tượng trưng cho việc thất bát, mất mùa năm tới. Người ta thường đổ một ít lúa vào cối xay, ngụ ý cầu mong năm mới lúa gạo đầy tràn.
- Cũng như trên, kiêng kỵ để thùng gạo, hủ đường muối,... thiếu hụt vì sợ cả năm đều bị thiếu thốn.
- Gia chủ hễ có khách đến là dọn cỗ, mời uống rượu, ăn bánh. Khách không được từ chối bữa ăn, dù no cũng phải nhấm nháp chút ít.
- Kiêng các việc làm đổ bể hư hỏng, hoặc tranh cãi to tiếng lẫn nhau.
- Thường kiêng khóc lóc, buồn tủi hoặc nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa trong dịp Tết.
- Kiêng cử quét nhà ngày đầu năm vì quan niệm quét tiền tài tốt đẹp ra ngoài. Ngoài ra người dân sẽ tắm gội cơ thể trước ngày đầu năm để tránh phải gột rửa may mắn trong năm mới.
Tết của người Việt Nam tại nước ngoài (việt kiều)
Người Việt sống ở nước ngoài nếu không có điều kiện về Việt Nam trong dịp Tết cũng tổ chức những hoạt động trong dịp Tết Âm lịch mang đậm truyền thống văn hóa Việt. Nhiều nơi có đông người Việt sinh sống như tại Mỹ, Úc, Pháp, Nga, Đức... người Việt sinh sống tại đây ăn Tết với bánh chưng gói và bán sẵn cũng như các món ăn được đưa từ Việt Nam sang như nước mắm Phan Thiết, cho đến củ tỏi, củ hành, rau húng, rau thơm... Nhiều gia đình cũng lập bàn thờ Gia tiên, bàn thờ cũng có mâm ngũ quả, bánh chưng, mứt Tết, hương trầm, rượu, kim ngân..., có gia đình treo cả câu đối, và một lọ hoa tươi giống như đón Tết cổ truyền tại Việt Nam.[61]Nhiều nơi, cộng đồng và các hội đoàn người Việt, các chùa Phật giáo, các giáo xứ Công giáo có tổ chức Hội tết và ca nhạc văn nghệ Tết. Sứ quán Việt Nam và các lãnh sự quán Việt Nam tại nước ngoài cũng có tổ chức các hoạt động vui Tết đón xuân cho kiều bào như các buổi tiệc nhỏ hay văn nghệ Tết, như tại Thái Lan, Canada [61].... Các khu thương xá của người Việt, các khu chợ Việt như tại Little Saigon ở tiểu bang California, Hackney (hay được gọi là "khu Việt Nam" tại Luân Đôn), Cabramatta (còn gọi là Saigonmatta) ở Sydney, Úc... cũng có bán các mặt hàng mứt, bánh chưng, hạt sen, lá dong tươi để gói bánh chưng, bánh tét, gạo nếp, xôi gấc, dừa khô, măng khô... được chuyển từ Việt Nam sang.[62] Chợ hoa cũng có bán cành đào, cành mai, dưa hấu nhập từ các nước châu Á sang để trưng bày trong nhà.
Tại Úc, hàng năm, vào ngày Tết Nguyên Đán, đều có các cuộc diễn hành Tết và Hội Tết của cộng đồng người Việt tại khắp nơi, mang đậm bản sắc văn hóa Việt, như tại Sydney, Melbourne với hàng trăm ngàn người tham dự [69]. Các hội tết cũng có các món ăn Việt, những trò chơi dân gian, những gian hàng chợ tết, bắn pháo hoa, múa lân, tái hiện văn hóa Việt xưa...[69]
Thi ca
- Mùng Một thì ở nhà cha,
- Mùng Hai nhà vợ, Mùng Ba nhà thầy
- Mùng Một tết cha,
- Mùng Hai tết mẹ, Mùng Ba tết thầy
- Cu kêu ba tiếng cu kêu
- Mong cho Tết đến dựng nêu ăn chè
- Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
- Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh
|
|
- Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa.
- Sáng mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
- Tối ba mươi, khép cánh càn khôn, ních chặt lại, kẻo ma vương đưa quỷ tới.
- Sáng mồng một, lỏng then tạo hóa, mở toang ra, cho thiếu nữ đón xuân vào.
- (Lưu truyền là của Hồ Xuân Hương)
- Số cô chẳng giàu thì nghèo,
- Ngày Ba Mươi Tết thịt treo trong nhà.
Nhạc Tết
Dịp tết là dịp vui vẻ nên không thể thiếu âm nhạc. Trong Tân nhạc Việt Nam có rất nhiều ca khúc sáng tác về chủ đề Tết và mùa Xuân. Trước đây có nhiều ca khúc xưa nổi tiếng như Ly rượu mừng, Đón xuân của Phạm Đình Chương, Xuân và tuổi trẻ của La Hối, Xuân họp mặt của Văn Phụng, Xuân đã về của Minh Kỳ, Anh cho em mùa xuân của Nguyễn Hiền,...[70] Trong thời chiến tranh Việt Nam, có những ca khúc hùng ca cho người chiến sĩ, nung đúc tinh thần họ như bài Xuân chiến khu của Xuân Hồng, nhưng cũng có những ca khúc buồn nói về sự xa cách như Xuân này con không về của bộ ba nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân. Gần đây, nhiều ca khúc vui tươi đã được sáng tác như Thì thầm mùa xuân của Ngọc Châu, Hoa cỏ mùa xuân của Bảo Chấn, Ngày tết quê em của Từ Huy, Mùa xuân ơi của Nguyễn Ngọc Thiện, Ngày xuân long phụng sum vầy của Quang Huy, Con bướm xuân (nhạc ngoại lời Việt),...[71] Nhưng từ năm 2000 trở lại đây thiếu vắng những bài nhạc Xuân mới tạo được sự nổi tiếng mà thường là các ca sĩ chỉ hát nhạc cũ và phối âm lại.[72]Ngoài ra, tết cũng là dịp để các nghệ sĩ thực hiện những show ca múa nhạc tết và hài kịch phục vụ người ái mộ [73]. Các hãng sản xuất phim cũng có phim Tết đặc biệt.
Cụm từ "Tết" được nhắc đến rất nhiều lần trong bài hát "Ngày Tết quê em" của Từ Huy:
-
- Tết Tết Tết Tết đến rồi
- Tết Tết Tết Tết đến rồi
- Tết Tết Tết Tết đến rồi
- Tết đến trong tim mọi người.
- Mừng ngày Tết trên khắp quê tôi....
-
- Xuân Xuân ơi! Xuân đã về, có nỗi vui nào hơn ngày xuân đến. Xuân Xuân ơi! Xuân đã về, tiếng chúc giao thừa chào đón mùa xuân. Xuân Xuân ơi! Xuân đến rồi, cánh én bay về cho tim mình náo nức. Xuân Xuân ơi! Xuân đến rồi, những đoá mai vàng chào mừng xuân sang. Nghe âm vang bao câu chúc yên lành....
Những ngày đầu năm theo 12 con giáp
Trong bảng này tính các năm từ 1984 đến 2091.[74]Chi | Ngày tháng Dương lịch | ||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tý | 2 tháng 2 năm 1984 (Giáp Tý) | 19 tháng 2 năm 1996 (Bính Tý) | 7 tháng 2 năm 2008 (Mậu Tý) | 25 tháng 1 năm 2020 (Canh Tý) | 11 tháng 2 năm 2032 (Nhâm Tý) | 30 tháng 1 năm 2044 (Giáp Tý) | 15 tháng 2 năm 2056 (Bính Tý) | 3 tháng 2 năm 2068 (Mậu Tý) | 22 tháng 1 năm 2080 (Canh Tý) |
Sửu | 21 tháng 1 năm 1985 (Ất Sửu) | 7 tháng 2 năm 1997 (Đinh Sửu) | 26 tháng 1 năm 2009 (Kỷ Sửu) | 12 tháng 2 năm 2021 (Tân Sửu) | 31 tháng 1 năm 2033 (Quý Sửu) | 17 tháng 2 năm 2045 (Ất Sửu) | 4 tháng 2 năm 2057 (Đinh Sửu) | 23 tháng 1 năm 2069 (Kỷ Sửu) | 9 tháng 2 năm 2081 (Tân Sửu) |
Dần | 9 tháng 2 năm 1986 (Bính Dần) | 28 tháng 1 năm 1998 (Mậu Dần) | 14 tháng 2 năm 2010 (Canh Dần) | 1 tháng 2 năm 2022 (Nhâm Dần) | 19 tháng 2 năm 2034 (Giáp Dần) | 6 tháng 2 năm 2046 (Bính Dần) | 24 tháng 1 năm 2058 (Mậu Dần) | 11 tháng 2 năm 2070 (Canh Dần) | 29 tháng 1 năm 2082 (Nhâm Dần) |
Mão | 29 tháng 1 năm 1987 (Đinh Mão) | 16 tháng 2 năm 1999 (Kỷ Mão) | 3 tháng 2 năm 2011 (Tân Mão) | 22 tháng 1 năm 2023 (Quý Mão) | 8 tháng 2 năm 2035 (Ất Mão) | 26 tháng 1 năm 2047 (Đinh Mão) | 12 tháng 2 năm 2059 (Kỷ Mão) | 31 tháng 1 năm 2071 (Tân Mão) | 17 tháng 2 năm 2083 (Quý Mão) |
Thìn | 17 tháng 2 năm 1988 (Mậu Thìn) | 5 tháng 2 năm 2000 (Canh Thìn) | 23 tháng 1 năm 2012 (Nhâm Thìn) | 10 tháng 2 năm 2024 (Giáp Thìn) | 28 tháng 1 năm 2036 (Bính Thìn) | 14 tháng 2 năm 2048 (Mậu Thìn) | 2 tháng 2 năm 2060 (Canh Thìn) | 19 tháng 2 năm 2072 (Nhâm Thìn) | 6 tháng 2 năm 2084 (Giáp Thìn) |
Tỵ | 6 tháng 2 năm 1989 (Kỷ Tỵ) | 24 tháng 1 năm 2001 (Tân Tỵ) | 10 tháng 2 năm 2013 (Quý Tỵ) | 29 tháng 1 năm 2025 (Ất Tỵ) | 15 tháng 2 năm 2037 (Đinh Tỵ) | 2 tháng 2 năm 2049 (Kỷ Tỵ) | 21 tháng 1 năm 2061 (Tân Tỵ) | 7 tháng 2 năm 2073 (Quý Tỵ) | 26 tháng 1 năm 2085 (Ất Tỵ) |
Ngọ | 27 tháng 1 năm 1990 (Canh Ngọ) | 12 tháng 2 năm 2002 (Nhâm Ngọ) | 31 tháng 1 năm 2014 (Giáp Ngọ) | 17 tháng 2 năm 2026 (Bính Ngọ) | 4 tháng 2 năm 2038 (Mậu Ngọ) | 23 tháng 1 năm 2050 (Canh Ngọ) | 9 tháng 2 năm 2062 (Nhâm Ngọ) | 27 tháng 1 năm 2074 (Giáp Ngọ) | 14 tháng 2 năm 2086 (Bính Ngọ) |
Mùi | 15 tháng 2 năm 1991 (Tân Mùi) | 1 tháng 2 năm 2003 (Quý Mùi) | 19 tháng 2 năm 2015 (Ất Mùi) | 6 tháng 2 năm 2027 (Đinh Mùi) | 24 tháng 1 năm 2039 (Kỷ Mùi) | 11 tháng 2 năm 2051 (Tân Mùi) | 29 tháng 1 năm 2063 (Quý Mùi) | 15 tháng 2 năm 2075 (Ất Mùi) | 3 tháng 2 năm 2087 (Đinh Mùi) |
Thân | 4 tháng 2 năm 1992 (Nhâm Thân) | 22 tháng 1 năm 2004 (Giáp Thân) | 8 tháng 2 năm 2016 (Bính Thân) | 26 tháng 1 năm 2028 (Mậu Thân) | 12 tháng 2 năm 2040 (Canh Thân) | 1 tháng 2 năm 2052 (Nhâm Thân) | 17 tháng 2 năm 2064 (Giáp Thân) | 5 tháng 2 năm 2076 (Bính Thân) | 24 tháng 1 năm 2088 (Mậu Thân) |
Dậu | 23 tháng 1 năm 1993 (Quý Dậu) | 9 tháng 2 năm 2005 (Ất Dậu) | 28 tháng 1 năm 2017 (Đinh Dậu) | 13 tháng 2 năm 2029 (Kỷ Dậu) | 1 tháng 2 năm 2041 (Tân Dậu) | 18 tháng 2 năm 2053 (Quý Dậu) | 5 tháng 2 năm 2065 (Ất Dậu) | 24 tháng 1 năm 2077 (Đinh Dậu) | 10 tháng 2 năm 2089 (Kỷ Dậu) |
Tuất | 10 tháng 2 năm 1994 (Giáp Tuất) | 29 tháng 1 năm 2006 (Bính Tuất) | 16 tháng 2 năm 2018 (Mậu Tuất) | 2 tháng 2 năm 2030 (Canh Tuất) | 22 tháng 1 năm 2042 (Nhâm Tuất) | 8 tháng 2 năm 2054 (Giáp Tuất) | 26 tháng 1 năm 2066 (Bính Tuất) | 12 tháng 2 năm 2078 (Mậu Tuất) | 30 tháng 1 năm 2090 (Canh Tuất) |
Hợi | 31 tháng 1 năm 1995 (Ất Hợi) | 17 tháng 2 năm 2007 (Đinh Hợi) | 5 tháng 2 năm 2019 (Kỷ Hợi) | 23 tháng 1 năm 2031 (Tân Hợi) | 10 tháng 2 năm 2043 (Quý Hợi) | 28 tháng 1 năm 2055 (Ất Hợi) | 14 tháng 2 năm 2067 (Đinh Hợi) | 2 tháng 2 năm 2079 (Kỷ Hợi) | 18 tháng 2 năm 2091 (Tân Hợi) |
Liên quan
Ý kiến ăn Tết Nguyên Đán theo Dương lịch
Năm 2005, Giáo sư Võ Tòng Xuân đã nêu ra đề xuất "Nên ăn Tết Ta theo lịch Tây":- Nên nghỉ Tết dương lịch với thời gian như nghỉ Tết âm lịch hiện nay (từ 26/12 đến 4/1), và nghỉ Tết âm lịch như nghỉ Tết dương lịch hiện nay (khoảng 2 ngày là đủ). Tất cả các hoạt động chào mừng năm mới, lễ họi truyền thống... vẫn tiếp tục gìn giữ và phát huy.[75]
Ngay lập tức, đề xuất này đã gây nên những luồng dư luận trái chiều. Những người ủng hộ cho rằng ăn Tết Ta thì sẽ bị lạc bước, lỡ nhịp với thế giới. Tết Ta ngày càng trở nên nhàm chán. Nếu ăn Tết Nguyên Đán theo Dương lịch thì sẽ hội nhập dễ, tiết kiệm thì giờ dành cho Tết, thuận tiện hơn vì chỉ còn một cái Tết.[76] Bỏ Tết Nguyên Đán thì tránh được những thủ tục phiền hà, tốn kém và sẽ tiện đủ đường.[77]
Trái lại, có rất nhiều ý kiến phản đối gay gắt đề xuất này, bao gồm bạn đọc các báo, nghệ sĩ, nhà khoa học... Những người phản đối đã cho rằng nếu thay đổi như vậy thì sẽ gây nên sự mất mát rất lớn về văn hóa thiêng liêng, cổ truyền của dân tộc bởi Tết Nguyên Đán đã ăn sâu trong tâm thức của người dân. Dịp Tết chính là dịp để người thân sum họp sau một năm xa cách. Dịp Tết là dịp để gìn giữ, phát huy văn hóa cổ truyền của dân tộc.[78] Giáo sư Sử học Lê Văn Lan đã chỉ ra rằng Tết Dương lịch chỉ là "món ăn thêm", còn Tết Âm lịch thì đã đi sâu vào máu thịt.[79] Ca sĩ Mỹ Linh đã nói rằng ăn Tết Ta theo Dương lịch là "thảm họa". Mỹ Linh đã chỉ ra rằng Tết Nguyên đán theo cách tổ chức bao nhiêu đời này là những giây phút thiêng liêng cho sự khởi đầu một năm mới...Chứng tỏ rằng truyền thống dân tộc bao đời vẫn luôn được duy trì trong tâm trí mỗi con người Việt[80]
Xem thêm
Chú thích
- ^ “Tết Nguyên đán, cái "Tết Cả" của văn hóa Việt”. Người đưa tin. Ngày 25 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2012.
- ^ a ă Nguyễn Tài Cẩn. Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo). Nhà xuất bản Giáo dục. Năm 1995. Trang 80, 158, 197.
- ^ 辞海编辑委员会. 《辞海》第六版彩图本, 第四卷. 上海辞书出版社. 上海, năm 2009. ISBN 9787532628599. Trang 2811, 2812.
- ^ 辞海编辑委员会. 《辞海》第六版彩图本, 第一卷. 上海辞书出版社. 上海, năm 2009. ISBN 9787532628599. Trang 397.
- ^ a ă 程勉学. 元旦与春节. 网易. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2017.
- ^ 台当局要废民国纪年欲影响民众心理认同. 新浪. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2017.
- ^ 辞海编辑委员会. 《辞海》第六版彩图本, 第一卷. 上海辞书出版社. 上海, năm 2009. ISBN 9787532628599. Trang 720, 723.
- ^ 辞海编辑委员会. 《辞海》第六版彩图本, 第四卷. 上海辞书出版社. 上海, năm 2009. ISBN 9787532628599. Trang 2812.
- ^ Giao Hưởng. Vì sao năm nay Việt Nam ăn Tết trước Trung Quốc một ngày?. Thanh Niên. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2016.
- ^ Nguyễn Quảng. Sao Việt Nam không dùng GMT+8?. BBC Tiếng Việt. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2016.
- ^ GS-TS. Trần Ngọc Thêm: Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục 1999
- ^ Minh Anh, Theo VDC1 (ngày 19 tháng 2 năm 2015). “Tết Nguyên đán có từ bao giờ?”. Đời sống & Pháp luật.
- ^ Nguyễn Ngọc Thơ: Văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam trong quan hệ với văn hóa truyền thống Việt Nam, luận án Tiến sĩ chuyên ngành Văn hóa học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia TP.HCM, 2011.
- ^ Đoan Hùng. “Lịch Ta, Lịch Tàu và sự khác biệt”. Truy cập 20 tháng 8 năm 2007.
- ^ “Phong tục ngày Tết Nguyên Đán xưa và nay”. Hà Nội.com. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2012.
- ^ VNN (Tư liệu: Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam) (ngày 31 tháng 1 năm 2008). “Tết của người thiểu số ở Việt Nam”. Tuổi Trẻ Online. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ Theo Báo Ninh Thuận (ngày 28 tháng 1 năm 2006). “Tại sao cúng Giao thừa ngoài trời?”. Tuổi trẻ Online. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ Theo NGUYỄN CHÍNH TÂM - Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần (ngày 16 tháng 1 năm 2009). “Khoa học "Tết"”. Tuổi trẻ online. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ a ă â b Tiếp Thị Gia đình (ngày 27 tháng 1 năm 2010). 27 tháng 1 năm 2010-xong-dat-dau-nam “Xông đất đầu năm”. vietnamnet.vn. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ Theo TT (ngày 22 tháng 1 năm 2004). “Lai lịch tiền mừng tuổi”. Việt báo. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ Trích 100 điều nên biết về phong tục VN (ngày 7 tháng 2 năm 2008). “Phong tục ngày Tết: Chúc Tết, mừng tuổi, xuất hành”. Tuổi trẻ online. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ Vũ Lê - Hoàng Khuê (ngày 9 tháng 2 năm 2008). “Tục hóa vàng ngày mùng 3”. vnexpress.net. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2010.
- ^ Đoàn Loan - Tuấn Dũng (ngày 11 tháng 2 năm 2005). “"Hoá vàng" cúng tiễn tổ tiên”. VnExpress. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ website Quê Hương (ngày 20 tháng 1 năm 2010). 20 tháng 1 năm 2010-tet-nguyen-dan-o-viet-nam “Nguyên Đán ở Việt Nam”. vietnamnet.vn. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ Tường Linh (nhà thơ) (ngày 7 tháng 1 năm 2006). “Nhớ chợ Tết làng xưa”. Việt Báo. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2010.
- ^ “Đi chợ đồ cổ ngày giáp Tết” (HTML). Thanh niên. Truy cập 6 tháng 2 năm 2010.
- ^ K.H (sưu tầm) (ngày 21 tháng 1 năm 2006). “Mâm ngũ quả ngày Tết: Nhiều quan niệm, lắm cách thể hiện”. TTXVN. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2010.
- ^ Nguyễn Nhã. “Cây nêu ngày Tết và tục thờ cúng tổ tiên”. Tuổi Trẻ Online. Truy cập 27 tháng 1 năm 2006.
- ^ Trích 100 điều nên biết về phong tục VN (ngày 15 tháng 2 năm 2007). “Câu đối tết”. Tuổi trẻ. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2010.
- ^ "Phố ông đồ"- hình ảnh Tết xưa giữa Sài Gòn, 24h, 08/02/2015
- ^ 70% ông đồ trượt kỳ thi sát hạch: 'Lộn xộn' ở Văn Miếu, VTC, 04/02/2015
- ^ theo T. Xuân (ngày 28 tháng 1 năm 2010). “Chơi hoa ngày Tết”. Tin Tức Online. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010. Đã định rõ hơn một tham số trong
|website=
và|work=
(trợ giúp) - ^ “Trang hoàng ngày Tết - Trang trí nhà ngày Tết”. Thanh Niên online. Ngày 11 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2010.
- ^ Sự tích hoa đào ngày Tết
- ^ Thúy Huỳnh (ngày 19 tháng 1 năm 2010). “Hoa mai ngày Tết”. Thanh niên Online. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ Theo Sức khỏe & đời sống (ngày 4 tháng 1 năm 2006). “Quất - cây cảnh ngày Tết, thuốc quý cho cả năm”. Tuổi trẻ. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ Ảnh mâm cỗ Tết của 12 gia đình Bắc, Trung, Nam, VnExpress, 27/1/2017
- ^ a ă Trắc nghiệm món ăn không thể thiếu trong ngày Tết ba miền, VnExpress, 26/1/2017
- ^ Nguyễn Ngọc Tuyết (ngày 18 tháng 1 năm 2010). “Nồi thịt kho ngày Tết”. Phụ Nữ Online. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ Lê Lan (ngày 25 tháng 1 năm 2009). “Tục ăn Tết của người Sài Gòn”. Tổ Quốc. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ “Hương vị ba miền”. Tin Việt Online. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ Thu Trang (ngày 16 tháng 1 năm 2010). “Chè kho ngày Tết xưa”. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ Những món ăn đang dần thất truyền trong ngày Tết, VnExpress, 3/2/14
- ^ a ă â b c d đ e ê g h Hoàng Bùi (29 tháng 1 năm 2006). “Số phận của phong tục Tết”. Báo Tiền Phong online. Truy cập 28 tháng 3 năm 2013.
- ^ Như Trang (1 tháng 2 năm 2003). “Đầu năm mua muối cầu may”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập 28 tháng 3 năm 2013.
- ^ (Theo Bách khoa Toàn thư) (ngày 16 tháng 2 năm 2007). “Những tục lệ ngày Tết”. vietnamnet.vn. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2010.
- ^ a ă Thúy Huỳnh (ngày 4 tháng 1 năm 2009). “Phong tục - tập quán Những điều kiêng kỵ trong ngày Tết”. Thanh niên Online. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ Phạm Thanh Bình (15 tháng 2 năm 2007). “Đốt pháo có thể bị xử lý hình sự”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập 28 tháng 3 năm 2013.
- ^ Khai hội hoa xuân lớn nhất TP HCM, VnExpress, 5/2/2013
- ^ Đường hoa Nguyễn Huệ, văn hóa Tết của Sài Gòn, VnExpress, 31/1/2013
- ^ Hơn một tỷ người châu Á đón mừng năm Quý Tỵ trong không khí lễ hội , RFI, 10/2/2013
- ^ Mỹ Tho: Rực rỡ đường hoa Hùng Vương , Tin24h, 29/01/2014
- ^ Ngắm đường hoa 2013 trên mọi miền đất nước , Zing News, 11/02/2013
- ^ Theo bài viết "Lễ hội: Thừa và Thiếu" của Nguyễn Mỹ trên Báo Thể thao văn hóa cuối tuần số 9 năm 2010, trang 51
- ^ a ă â “Nét đẹp của các phong tục đầu năm”. Báo Tuổi Trẻ (Theo VTV). Ngày 13 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ “Săn hoa đẹp ngày Tết”. Truy cập 3 tháng 2 năm 2008.
- ^ Theo THÚY HUỲNH - Thanh niên (ngày 24 tháng 1 năm 2009). “Những điều kiêng kỵ trong ngày Tết”. Báo Tuổi trẻ online. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2010.
- ^ a ă â 18 tháng 1 năm 2010-noi-voi-con-ve-tet “Nói với con về Tết”. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ “Kiêng kỵ ngày đầu năm”. báo Tuổi Trẻ. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ a ă “Cần kiêng kỵ gì trong những ngày Tết?”. Dân Trí. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2014.
- ^ a ă “Tết cổ truyền của người Việt Nam ở nước ngoài”. Thanh niên. Ngày 15 tháng 2 năm 2007. Truy cập 15 tháng 2 năm 2007.
- ^ “Không khí đón Tết tại Mỹ”. VietNamNet. Ngày 17 tháng 2 năm 2007. Truy cập 17 tháng 2 năm 2007.
- ^ a ă â “Người Việt Hải Ngoại Ăn Tết”. VVNNEWS. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ Người Việt ở Mỹ thi nấu bánh chưng bánh tét, VnExpress, 21/1/2014
- ^ “Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam - Nam California tổ chức họp báo Hội Chợ Tết Xuân Kỷ Sửu – 2009 "Xuân Hy Vọng"”. báo Người Việt. Ngày 9 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ Khai mạc Hội Tết Sinh Viên ‘Xuân Quê Hương’ 2013 , Người Việt, 9/2/2013
- ^ Trang web chính thức Têt Festival
- ^ Hội Tết Sinh Viên 2014 được tổ chức tại địa điểm mới , Báo Người Việt, 26/12/2013
- ^ a ă “"Tet festival" ở Úc”. báo Tuổi Trẻ. Ngày 11 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ Lê Hoàng Thanh (ngày 28 tháng 10 năm 2005). “Xuân và Tết trong nhạc Việt”. Nam Úc tuần báo. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ 10 ca khúc Việt được nghe nhiều nhất trong những dịp Tết, VnExpress, 17/2/2015
- ^ Theo Eva (ngày 24 tháng 1 năm 2008). “Đìu hiu nhạc tết”. VietNamNet. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ Quỳnh Nguyên (ngày 2 tháng 2 năm 2008). “Đa dạng show ca nhạc tết”. báo Tuổi Trẻ. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ “Sơ lược về 12 con giáp”. Truy cập 14 tháng 9 năm 2008.
- ^ Tết ta theo tây lịch: GS Võ Tòng Xuân bảo vệ quan điểm
- ^ Hà Văn Thịnh. “Ăn Tết theo dương lịch: Tốt đủ mọi đàng...”. Truy cập 9 tháng 1 năm 2013.
- ^ Trần Giang Phương. “Tết Ta ăn theo lịch Tây, thời nay tiện đủ đường”. Truy cập 23 tháng 1 năm 2013.
- ^ VTC. “Tết ta theo tây lịch: Nhiều nhà khoa học cùng lên tiếng”. Truy cập 23 tháng 1 năm 2013.
- ^ Lê Văn Lan. “Giáo sư Lê Văn Lan: Tết Dương lịch chỉ là 'món ăn thêm'”. Truy cập 10 tháng 1 năm 2013.
- ^ Mỹ Linh. “Mỹ Linh: Ăn Tết ta theo dương lịch ư? - Thảm họa”. Truy cập 8 tháng 1 năm 2013.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Tết Nguyên Đán |
Tư liệu
- Tết xưa Sài Gòn, VnExpress, 1/2/2014
- Đường hoa Nguyễn Huệ, văn hóa Tết của Sài Gòn, VnExpress, 31/1/2013
Tin tức
- Bác Hồ hóa trang đi chợ Tết
- Phục vụ nước sạch Tết Nguyên đán đảm bảo trên 500.000m3/ngày
- Ngày xưa... Tết Nguyên đán
- Người Việt ở Mỹ thi nấu bánh chưng bánh tét, VnExpress, 21/1/2014
Ảnh
- "Phố ông đồ"- hình ảnh Tết xưa giữa Sài Gòn, 24h, 08/02/2015
Video
- Video Đường hoa Nguyễn Huệ 2014, TP Hồ Chí Minh
- Video Đường hoa Nguyễn Huệ 2013, TP Hồ Chí Minh
- Video Hội Tết Sinh Viên 2009, Orange County
- Diễn hành xuân San Jose 2007
No comments:
Post a Comment